TƯ VẤN THỦ TỤC LY HÔN

liên hệ: 12 Mạc Đĩnh Chi, phường Đakao, Quận 1

email: tuvan@luatsuquangthai.vn

Điện thoại: 0912 12 68 12

Văn phòng tư vấn thủ tục ly hôn - Luật sư Quang Thái

Một số điều kiện về kết hôn trong luật hôn nhân và gia đình năm 2000

TS. CHU HẢI THANH

Ngày 09/6/2000 tại kỳ họp thứ 7 khóa X Quốc hội đã thông qua Luật Hôn nhân và gia đình mới – đây là đạo luật thứ ba trong vòng 40 năm qua về lĩnh vực hôn nhân và gia đình ở nước ta.

Điều mới dễ nhận thấy nhất là quy mô của đạo Luật Hôn nhân và gia đình lần này đã đạt mức độ hoàn chỉnh cao về dung lượng, nhắm tới việc đáp ứng đầy đủ hơn yêu cầu điều chỉnh các quan hệ hôn nhân và gia đình trong giai đọan phát triển mới của đất nước. So với 10 điều liên quan trong Sắc lệnh số 97/SL ngày 22/5/1950, 6 chương 35 điều của Luật Hôn nhân và gia đình 1959 và 10 chương 57 điều của Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 thì Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 với 13 chương và 111 điều đã có bước tiến rất lớn, đạt tầm vóc của một bộ luật.

Nhưng việc đánh giá hiệu qủa và sự hoàn chỉnh của một văn bản pháp quy quan trọng không chỉ căn cứ vào số lượng điều khoản, mà vấn đề căn bản là phải xem xét những ưu điểm về nội dung mà văn bản đó thể hiện. Những ưu điểm như vậy trong Luật Hôn nhân và gia đình mới là rất nhiều.

Trong phạm vi bài viết ngắn này, chúng tôi xin chỉ đề cập một số điểm mới nổi trội trong quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 về việc kết hôn nhằm góp phần quán triệt đầy đủ hơn nội dung của nó.

Về căn bản, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 vẫn giữ quy định về 3 điều kiện tối thiểu phải có để được phép kết hôn vốn đã định hình và mang tính truyền thống trong hai đạo Luật Hôn nhân và gia đình trước đây là độ tuổi, sự tự nguyện của nam nữ và thủ tục đăng ký việc kết hôn tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền (các Điều 9 và Điều 11).

Điểm mới cần ghi nhận ở đây là: các quy định về việc đăng ký kết hôn đã cụ thể hơn và mang tính ràng buộc cao hơn. Nếu như trong các đạo Luật Hôn nhân gia đình năm 1959 và năm 1986 vấn đề đăng ký kết hôn chỉ được nêu một cách ngắn gọn chung trong một điều là do ủy ban nhân dân xã, phường nơi thường trú của một trong hai đương sự công nhận và ghi vào sổ kết hôn, thì nay vấn đề này được chi tiết hóa bằng bốn điều luật.

Cụ thể: Điều 11 khẳng định dứt khoát rằng việc kết hôn phải được đăng ký trong trình tự hộ tịch do cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện theo quy định tại các Điều 12, 13 và 14. Ngoài ra, trong Điều 11 nhà lập pháp cảnh báo rằng: “Nam, nữ không đăng ký kết hôn mà chung sống với nhau như vợ chồng thì không được pháp luật công nhận là vợ chồng.” Để đảm bảo thực thi quy định này, Nghị quyết 35/2000/QH.10 ngày 09/6/2000 của Quốc hội (tại điểm b và c mục 3) và Thông tư liên tịch số 01/2001/TTLT ngày 03/01/2001 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Bộ Tư pháp (tại các mục 1, 2 và 3) hướng dẫn: trường hợp nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng, có đủ điều kiện kết hôn nhưng không đăng ký kết hôn thì khi họ có yêu cầu ly hôn Tòa án sẽ ra bản án không công nhận họ là vợ chồng. Đây là cách xử lý mới đối với hành vi cố ý vi phạm quy định của luật về việc đăng ký kết hôn, không phụ thuộc vào yêu cầu khởi kiện của các đương sự lúc ban đầu.

Bản án phủ nhận một quan hệ pháp luật loại như vậy là để làm cơ sở giải quyết các hậu qủa khác của sự trốn tránh hoặc coi thường việc đăng ký kết hôn. Do, những nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng kia không vi phạm các điều kiện cho phép hoặc cấm kết hôn khác nên Tòa án chỉ dừng lại ở mức độ là không công nhận quan hệ vợ chồng của họ chứ không huỷ bỏ hay bắt buộc họ phải chấm dứt sự chung sống như trên.

Về các trường hợp cấm kết hôn thì ngoài việc làm rõ thêm các quy định đã có, trong điều 10 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 còn thể hiện một sự điều chỉnh và bổ sung rất đáng kể. Như tại khoản 4 Điều 10 nêu trên, trong khi cụ thể hóa trường hợp cấm kết hôn giữa người đã từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi thì đã bổ sung thêm việc cấm kết hôn giữa “bố chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, bố dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng”. Đây là bổ sung sáng suốt góp phần bảo vệ nền tảng đạo đức, sự trong sáng, lành mạnh và tôn ti trật tự trong quan hệ gia đình mang bản sắc luân lý đặc trưng của dân tộc Việt Nam.

Đối với một vấn đề gây tranh cãi và đang có những cách giải quyết khác nhau trên thế giới việc kết hôn của những người cùng giới tính thì thái độ của các nhà lập pháp Việt Nam thể hiện trong Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 là dứt khoát: cấm kết hôn (khoản 5, Điều 10). ở nước ta quan hệ đồng giới tính là một hiện tượng không mới nhưng hiện nay lại đang nổi lên khá công khai, nhất là trong cư dân đô thị. Về lâu dài, thiết tưởng cần có sự tìm hiểu, thống kê và nghiên cứu đầy đủ với thái độ tôn trọng và cảm thông để áp dụng những giải pháp, pháp luật thỏa đáng hơn cho vấn đề hôn nhân đồng giới.

Bên cạnh các bổ sung trên thì chúng ta không còn tìm thấy trong đạo luật mới quy định cấm người đang mắc bệnh hoa liễu, cấm anh chị em cùng cha khác mẹ hoặc cùng mẹ khác cha kết hôn với nhau như đã từng đặt ra trong Điều 9 và 10 Luật hôn nhân và gia đình năm 1959; các điểm b và c Điều 7 Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986.

Về trường hợp bỏ cấm đoán kết hôn đối với người đang mắc bệnh hoa liễu (và chúng ta liên tưởng đến cả người nhiễm HIV-AIDS) có lẽ mang nhiều ý nghĩa nhân đạo. Bởi lẽ, những căn bệnh trên không thể là lý do để tước bỏ quyền kết hôn của công dân khi họ có tình yêu thương và thật sự tự nguyện chấp nhận cuộc sống lứa đôi trong hoàn cảnh bệnh tật khó khăn đó. Mặt khác, đối với y học ngày nay thì việc ngăn ngừa sự lây lan và chữa trị bệnh hoa liễu không còn là nan giải nữa.

Việc không có quy định trực tiếp cấm kết hôn giữa hai người là anh chị em cùng cha khác mẹ hoặc cùng mẹ khác cha cần được hiểu như thế nào? Những người này có liên hệ về huyết thống, do đó căn cứ đoạn 2, mục 3 Điều 10 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 thì họ thuộc diện có họ trong phạm vi ba đời, không được kết hôn với nhau. Hiểu như vậy là theo đúng lô-gíc: giữa những người có họ trong phạm vi ba đời (bao gồm trực hệ và bàng hệ) đều bị cấm kết hôn, trong đó anh chị em cùng cha khác mẹ hoặc cùng mẹ khác cha thuộc trường hợp không thể cho kết hôn với nhau được!

Vấn đề kết hôn giữa con riêng của chồng và con riêng của vợ, giữa những người con nuôi hoặc giữa con đẻ với con nuôi trong một gia đình chưa từng được dự liệu trong các đạo luật hôn nhân và gia đình của chúng ta nhưng là một thực tế cần quan tâm.** Các chủ thể trên là anh chị em trong gia đình, nhưng giữa họ lại không có quan hệ huyết thống và không có quan hệ họ hàng, vậy nếu phát sinh việc kết hôn với nhau thì giải quyết ra sao ?

Về mặt đạo đức chúng ta không thể hoặc khó chấp nhận con riêng của vợ với con riêng của chồng, các người con nuôi của cùng cha mẹ nuôi hoặc con đẻ với con nuôi kết hôn với nhau, mặc dù về huyết thống không có ảnh hưởng tiêu cực cho nòi giống. Khi hai người kết hôn thuộc diện các đương sự trên yêu cầu chính quyền cho đăng ký kết hôn thì cán bộ hộ tịch không tìm ra quy định pháp luật để giải quyết. Còn đôi uyên ương lại lý sự: “Chúng tôi được làm những gì pháp luật không cấm!”. Có phải là khó xử không?

Tóm lại, những quy định về điều kiện kết hôn trong Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 đã có sự hoàn chỉnh, những cấm đoán kết hôn không còn cần thiết cần được dỡ bỏ, công dân được tạo thuận lợi nhiều hơn để hưởng quyền kết hôn xây dựng mái ấm gia đình – một trong những quyền con người cơ bản nhất của mỗi cá nhân.

Tuy nhiên, trong lĩnh vực này các nhà lập pháp cũng chưa phải lường hết việc phải làm.

Chú thích:

* Xem: Lê Hương Lan- Quy định về kết hôn và quan hệ giữa vợ và chồng trong Luật hôn nhân và gia đình năm 2000; Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, Số chuyên đề về Luật hôn nhân và gia đình năm 2000; Hà Nội, tháng 2-2001, tr. 87).

* Mục 3, 4 Điều 111 Bộ dân luật năm 1972 của chế độ cũ miền Nam quy định: cấm hôn thú giữa những người con nuôi của cùng một người và giữa những người con nuôi với con của người đứng nuôi.

SOURCE: TẠP CHÍ NGHỀ LUẬT SỐ 1 NĂM 2008


Bài viết liên quan
Thủ tục ly hôn

Thủ tục ly hôn

Khi mâu thuẫn trong quan hệ của vợ chồng trở nên trầm trọng, cuộc sống vợ chồng không chia sẻ được với nhau, mục đích cuộc sống hôn nhân không đạt được thì các bên có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết, tiến hành thủ tục ly hôn để chấm dứt quan hệ hôn nhân giữa vợ chồng. Thủ tục xin ly hôn được tiến hành tại Tòa án theo quy định ...

Thủ tục Ly Hôn Thuận Tình

Thủ tục Ly Hôn Thuận Tình

Trong trường hợp vợ chồng cùng yêu cầu ly hôn, nếu xét thấy hai bên thật sự tự nguyện ly hôn và đã thỏa thuận về việc chia tài sản, việc trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con trên cơ sở bảo đảm quyền lợi chính đáng của vợ và con thì Tòa án công nhận ly hôn đồng thuận; nếu không thỏa thuận được hoặc có thỏa thuận nhưng không ...

Thủ tục Ly hôn đơn phương

Thủ tục Ly hôn đơn phương

Pháp luật ly hôn đơn phương quy định tại Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định: Khi vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không thành thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân ...

Chia tài sản khi ly hôn

Chia tài sản khi ly hôn

Trong trường hợp các bên không thỏa thuận việc giải quyết chia tài sản thì các bên có quyền yêu cầu tòa án giải quyết. Tài sản chung vợ chồng được giải quyết trong vụ án ly hôn hoặc có thể thỏa thuận tách riêng để giải quyết trong vụ án chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân sau khi Tòa giải quyết ly hôn.

Quyền nuôi con khi ly hôn

Quyền nuôi con khi ly hôn

Trong trường hợp các bên không thỏa thuận được việc nuôi con thì các bên có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết. Việc giải quyết tranh chấp quyền trực tiếp nuôi con phải được giải quyết trong vụ án ly hôn. Thẩm quyền giải quyết tranh chấp quyền trực tiếp nuôi con là Tòa án.

Xem tất cả »


Tư vấn thủ tục ly hôn

© 2014 - Bản quyền Văn Phòng Luật Sư Quang Thái

Liên hệ